(KTSG Online) – Kể từ đại dịch Covid-19, số lượng nhân viên mà các doanh nghiệp mới thành lập ở Mỹ giảm nhanh. Nhiều nơi chỉ sử dụng lao động tự do, làm việc trong ngắn hạn theo mùa vụ. Một số chủ doanh nghiệp kiêm luôn vai trò nhân viên.
Xu hướng này phản ảnh những khó khăn về tuyển dụng do đại dịch và tình trạng thị trường lao động thắt chặt sau đó nhưng cũng cho thấy những thay đổi khác. Trong đó, có xu hướng làm việc từ xa và sự trỗi dậy của nền kinh tế tự do.
Daniel Quinones, người sáng lập công ty Front Page Retail ở bang Florida sử dụng nhiều lao động làm việc tự do từ xa. Ảnh: WSJ
Lượng nhân sự của công ty mới ngày càng ít
Cộng đồng doanh nghiệp nhỏ thường được xem cỗ máy tạo việc làm. Thế nhưng, những công ty mới thành lập ở Mỹ không còn tạo ra nhiều việc làm như trước đây.
Số lao động trung bình được tuyển dụng bởi những doanh nghiệp trẻ nhất giảm mạnh trong thời kỳ đại dịch. Tình trạng này cho thấy, xu hướng thu hẹp quy mô nhân sự của doanh nghiệp kéo dài hàng thập niên qua ở Mỹ đang tăng tốc.
Theo dữ liệu của Bộ Thương mại Mỹ, những doanh nghiệp thành lập trong giai đoạn từ tháng 3-2020 đến tháng 3-2021 sử dụng trung bình 4,6 nhân viên. Con số này thấp hơn mức trung bình 5,3 nhân viên của mỗi doanh nghiệp thành lập một năm trước đó. Vào thời điểm chuyển giao sang thế kỷ 21, mỗi doanh nghiệp mới thành lập sử dụng trung bình 5,8 nhân viên.
Có nhiều lý do khác nhau khiến những doanh nghiệp mới thành lập thường có quy mô nhỏ. Trong đó, có những trở ngại liên quan đến đại dịch đã làm chậm quá trình tuyển dụng và một số doanh nghiệp chọn mô hình kinh doanh quy mô nhỏ vì muốn tạo sự cân bằng tốt hơn giữa công việc và cuộc sống.
Tuy nhiên, số lượng nhân viên thấp hơn ở những doanh nghiệp non trẻ cũng phản ảnh những thay đổi cơ bản hơn. Đó là, sự trỗi dậy của xu hướng làm việc từ xa, sự mở rộng của nền kinh tế tự do (gig economy) và sự phổ biến của các công cụ phần mềm giúp giới doanh nhân điều hành hoạt kinh doanh dễ dàng với đội ngũ nhân viên tinh gọn hơn.
Daniel Quinones ở thành phố Miami Beach, bang Florida là một ví dụ. Cuối năm 2019, sau khi mất việc ở một thương hiệu thực phẩm lớn. Tháng 6-2020, doanh nhân này thành lập công ty Front Page Retail để giúp các nhà sản xuất thực phẩm và đồ uống giới thiệu sản phẩm tại các cửa hàng.
Quinones thuê nhân viên toàn thời gian đầu tiên vào cuối năm 2021. Đến tháng 4-2024, anh thuê nhân viên thứ hai và dự kiến sẽ bổ sung thêm hai nhân viên nữa trong tháng này. Cùng với đó, Front Page Retail hợp tác với hơn 30 lao động làm việc tự do.
Kết quả phân tích dữ liệu của Wall Street Journal cho thấy, sự xuất hiện của các công ty khởi nghiệp quy mô siêu nhỏ như Front Page Retail diễn ra ở hầu hết các ngành kinh doanh và khu vực địa lý ở Mỹ, cả khu vực nông thôn lẫn thành thị.
Theo nhà kinh tế học John Haltiwanger của Đại học Maryland, số lượng công ty khởi nghiệp mới tăng với tốc độ nhanh hơn nhiều so với công việc mà những doanh nghiệp này tạo ra.
Theo dữ liệu của Bộ Thương mại Mỹ, những doanh nghiệp thành lập trong giai đoạn từ tháng 3-2020 đến tháng 3-2021 sử dụng trung bình 4,6 nhân viên. Ảnh: WSJ
Tận dụng lao động tự do
Đầu năm 2020, Slater McLean và Jack Paley thành lập công ty bán lẻ trực tuyến Oliver Charles, trụ sở ở thành phố San Francisco để bán áo len. Hai người cũng là nhân viên của công ty và không có kế hoạch tuyển dụng trong tương lai gần.
Ban đầu, hai doanh nhân này cũng tính là sẽ thuê một nhân viên mới vào nghề để hỗ trợ công việc nhưng sau đó lại đổi ý. Lý do là qua mạng hội Twitter (nay là X) và mạng lưới doanh nhân, họ nhận thấy có thể dễ dàng để xây dựng một lực lượng lao động là những người làm việc tự do, ngắn hạn khắp trên toàn cầu.
Những người làm tự do ở Mỹ đã được trả thù lao để viết bài quảng bá về Oliver Charles đăng trên blog. Một lao động tự do ở Philippines được thuê xử lý các nhiệm vụ khác. Một nhà máy ở New York sẽ dệt áo len cho Oliver Charles theo yêu cầu khi có đơn đặt hàng.
Kenan Fikri, giám đốc nghiên cứu của Economic Innovation Group, một tổ chức tư vấn cho rằng, bản chất của doanh nghiệp đang thay đổi.
Nettie, công ty bán dụng cụ pickleball (môn thể thao kết hợp giữa bóng bàn, tennis và bóng chuyền) thành lập năm 2021, chỉ sử dụng hai nhân viên toàn thời gian. Người sáng lập Catherine Baxter quyết định không bổ sung nhân viên khi một người chuyển sang công việc khác và một người thử việc không thành công. Hiện tại, Baxter đang làm việc với khoảng 10 người làm việc tự do toàn thời gian và bán thời gian.
“Điều này cho phép tôi thay đổi số lượng nhân sự theo mùa vụ. Tôi muốn duy trì bộ máy nhân sự gọn nhẹ để có thể kinh hoạt”, cô nói.
Theo Robert Fairlie, nhà kinh tế tại Đại học California ở Los Angeles, việc tinh giảm nhân sự có thể giúp doanh nghiệp trẻ dễ dàng thích ứng hơn với những thăng trầm của chu kỳ kinh tế.
Cơ quan Quản lý doanh nghiệp nhỏ của chính phủ Mỹ, cho biết cộng đồng doanh nghiệp nhỏ tạo ra hơn 60% tổng số việc làm mới trong giai đoạn 1995-2023. Tính đến tháng 7, số lượng doanh nghiệp mới đăng ký thành lập ở Mỹ giảm so với mức đỉnh điểm trong thời kỳ ban đầu của đại dịch nhưng vẫn ở mức cao. Hiện còn quá sớm để biết có bao nhiêu công ty khởi nghiệp non trẻ có khả năng tồn tại lâu dài, công ty nào sẽ thất bại và công ty nào sẽ trở thành những nhà tuyển dụng quan trọng.
Làm được nhiều hơn với nguồn lực ít hơn
Nhiều doanh nghiệp trẻ của Mỹ đang gặp khó khăn do môi trường lạm phát cao và thị trường lao động thắt chặt.
Đầu năm 2021, Michelle Harper ở bang California thành lập doanh nghiệp cung cấp dịch vụ chăm sóc thú cưng chó và mèo. Công ty của Harper có 9 nhân viên nhưng cô ước tính có thể kiếm đủ việc để thuê đến 15 nhân viên.
“Tôi nhận được 45 hồ sơ và không tìm được ai phù hợp. Một nửa số ứng viên không đến phỏng vấn theo lịch hẹn và cũng không gọi điện lại”, cô nói.
Theo Liz Wilke, nhà kinh tế trưởng của Gusto, nhà cung cấp phần mềm quản lý nhân lực, giới doanh nhân trẻ đang theo đuổi phương châm “làm được nhiều hơn với ít nguồn lực hơn”. Mô hình doanh nghiệp với quy mô nhỏ sẽ tiếp tục phát triển.
Một số doanh nhân lựa chọn tăng trưởng chậm. Năm 20220, Helena Falangus Duffy ở Lynnwood, bang Washington ra mắt công ty Pottery by Eleni chuyên bán các sản phẩm gốm thủ công. Công ty sử dụng mạng xã hội Instagram để thu hút sự chú ý của khách hàng. Chồng của Duffy nghỉ việc vào năm 2021 để làm việc toàn thời gian cho công ty gia đình. Cô chỉ tuyển dụng một người lao động độc lập làm toàn thời gian. Vào thời gian kinh doanh cao điểm trong kỳ nghỉ lễ cuối năm, doanh nhân này sẽ tuyển thêm bốn lao động làm việc ngắn hạn khác.
Duffy cho biết, công ty vẫn có thể tuyển 1 hoặc 2 nhân viên chính thức làm toàn thời gian. Tuy nhiên, cô đang tìm cách cân bằng việc điều hành kinh doanh với việc nuôi dạy đứa con đầu lòng chào đời trong năm nay.
“Chúng tôi chỉ tạo ra đủ thu nhập để hỗ trợ gia đình. Chúng tôi không có tham vọng mở rộng kinh doanh và xây dựng nhà kho riêng mà muốn duy trì công ty ở quy mô nhỏ để không làm việc quá sức”, Duffy chia sẻ.
Bài viết này khám phá cách AI có thể trở thành công cụ mạnh mẽ trong việc phá vỡ vòng luẩn quẩn của thông tin sai lệch.
Niềm tin vào các thuyết âm mưu không chỉ là hiện tượng của một nhóm nhỏ. Từ những tin đồn về COVID-19 đến các vụ che đậy chính trị, tư duy âm mưu đã xâm nhập vào mọi ngóc ngách của xã hội. Mặc dù việc kiểm chứng thông tin trong thời đại số hóa rất dễ dàng, nhiều người vẫn tiếp tục bám chặt vào những niềm tin này. Liệu trí tuệ nhân tạo có thể thay đổi điều đó không?
Nghiên cứu gần đây được công bố trên tạp chí uy tín Science cho thấy AI có thể chính là chìa khóa để giảm thiểu tư duy âm mưu có hại.
(Hình ảnh: forbes)
Các mô hình AI tạo sinh – như chuỗi GPT – đã cho thấy hiệu quả đáng ngạc nhiên trong việc tương tác với những người tin vào thuyết âm mưu thông qua các cuộc đối thoại được điều chỉnh riêng. Bằng cách trực tiếp giải quyết các bằng chứng mà mọi người trích dẫn cho niềm tin của họ, AI có khả năng dần dần phá vỡ ngay cả những quan điểm bám rễ sâu nhất.
Câu hỏi đặt ra là, cơ chế này hoạt động như thế nào, và liệu AI có thực sự có thể giúp xã hội chống lại thông tin sai lệch một cách bền vững hay không?
Một vấn đề dai dẳng
Sự phổ biến của các thuyết âm mưu đang gây lo ngại, đặc biệt khi xét đến những hậu quả thực tế của chúng. Từ cuộc nổi dậy ngày 6 tháng 1 cho đến việc phủ nhận COVID-19, những niềm tin này không chỉ đe dọa an toàn công cộng mà còn làm suy yếu chính nền dân chủ. Theo truyền thống, các nhà tâm lý học cho rằng niềm tin vào thuyết âm mưu đáp ứng nhu cầu tâm lý – mang lại cho người tin cảm giác kiểm soát hoặc độc đáo – và khó bị bác bỏ bởi các lập luận thực tế. Nhưng nếu vấn đề không nằm ở tâm lý của người tin mà là cách thức các sự kiện được trình bày với họ thì sao? Có thể nào mọi người bám víu vào các thuyết âm mưu đơn giản vì họ chưa bao giờ tiếp xúc với bằng chứng theo cách thực sự có ý nghĩa với họ? Nghiên cứu mới này cho thấy trí tuệ nhân tạo (AI) có thể là câu trả lời.
Sức Mạnh của Các Cuộc Đối Thoại AI
Nghiên cứu do Thomas Costello, Gordon Pennycook và David Rand dẫn đầu đã thử nghiệm một can thiệp mới, trong đó AI tham gia vào các cuộc trò chuyện thời gian thực với 2.190 người tham gia, mỗi người đều tin vào một thuyết âm mưu nào đó. Những người tham gia này được yêu cầu giải thích về thuyết âm mưu mà họ tin tưởng, sau đó AI sẽ tham gia vào một cuộc đối thoại gồm ba vòng, thách thức quan điểm của họ bằng các lập luận phản biện dựa trên sự thật.
Kết quả thật đáng kinh ngạc: các cuộc trò chuyện do AI dẫn dắt đã làm giảm niềm tin vào những thuyết âm mưu này trung bình 20%. Điều còn đáng chú ý hơn là hiệu quả này kéo dài ít nhất hai tháng. Các cuộc trò chuyện được cá nhân hóa cao độ, đề cập đến những bằng chứng cụ thể mà người tham gia đưa ra, có lẽ đây chính là yếu tố góp phần vào thành công của nghiên cứu.
Hơn nữa, kỹ thuật này không chỉ hiệu quả đối với các thuyết âm mưu “nhỏ” hay “ngoài lề”. Những người tham gia tin vào các thuyết âm mưu được lan truyền rộng rãi – như những thuyết liên quan đến COVID-19, cuộc bầu cử Mỹ năm 2020, hay thậm chí là những niềm tin lâu đời về Hội Illuminati – cũng có khả năng giảm niềm tin tương đương sau khi tương tác với AI.
Tại sao AI hoạt động hiệu quả trong khi con người gặp khó khăn
Điều gì khiến AI thuyết phục hơn một người kiểm chứng thông tin thông thường? Trước hết, AI không bị chi phối bởi cảm xúc hay sự thất vọng, vốn thường là rào cản trong các cuộc tranh luận giữa người với người. Khi ai đó không chịu thay đổi quan điểm, bản năng của chúng ta là hoặc tranh cãi gay gắt hơn hoặc rút lui. Ngược lại, AI có thể duy trì giọng điệu bình tĩnh và nhất quán, dẫn dắt cuộc trò chuyện với sự kiên nhẫn vô tận.
Một ưu điểm khác của AI là khả năng tạo ra các phản hồi được cá nhân hóa. Mỗi người tin vào thuyết âm mưu đều có lý do riêng để tin vào điều đó, và việc bác bỏ theo cách “một kích cỡ phù hợp tất cả” đơn giản là không hiệu quả. AI có thể xử lý và phản hồi các lập luận cụ thể của từng cá nhân, khiến cuộc đối thoại cảm giác giống một cuộc thảo luận cá nhân hơn là một bài giảng.
Quan trọng hơn, AI không chỉ bác bỏ các thuyết âm mưu một cách mù quáng. Nó có khả năng phân biệt giữa những tuyên bố không có cơ sở và những tuyên bố dựa trên sự thật. Khi người tham gia đề cập đến các âm mưu có thật (như thí nghiệm MK Ultra của CIA), AI không cố gắng bác bỏ chúng, điều này có thể đã tăng cường độ tin cậy của nó trong các lĩnh vực khác.
Tác động bền vững: Thay đổi tư duy trong dài hạn
Hiệu quả của những cuộc đối thoại với AI này không chỉ là một chiến thắng nhất thời. Nghiên cứu cho thấy việc giảm niềm tin vào thuyết âm mưu không phải là hiệu ứng ngắn hạn sẽ phai nhạt sau vài ngày. Thực tế, ngay cả sau hai tháng, những người tham gia vẫn không có dấu hiệu quay trở lại mức độ tin tưởng ban đầu của họ.
Điều còn ấn tượng hơn là hiệu ứng lan tỏa. Mỗi cuộc đối thoại chỉ tập trung vào một thuyết âm mưu cụ thể cho mỗi người, nhưng sau khi tương tác với AI, những người tham gia cũng giảm niềm tin vào các thuyết âm mưu khác không liên quan. Điều này cho thấy sự can thiệp đã giúp thay đổi toàn diện cách nhìn nhận thế giới của họ, xa rời lối tư duy âm mưu.
Không chỉ thay đổi niềm tin, những người tham gia còn thể hiện sự thay đổi hành vi rõ rệt. Nhiều người bày tỏ ý định tăng cường phớt lờ hoặc tranh luận với những người tin vào thuyết âm mưu khác, và một số thậm chí ít có khả năng tham gia vào các cuộc biểu tình liên quan đến thuyết âm mưu. Sự thay đổi hành vi này gợi ý về tiềm năng của AI trong việc giảm thiểu sự lan truyền của thông tin sai lệch trong các bối cảnh xã hội rộng lớn hơn.
Một Con Dao Hai Lưỡi?
Mặc dù tiềm năng của AI trong việc vạch trần thông tin sai lệch là vô cùng hứa hẹn, chúng ta cũng cần xem xét mặt trái của công nghệ này. AI có thể dễ dàng được huấn luyện để lan truyền thông tin sai lệch một cách hiệu quả như khi nó vạch trần chúng. Nếu không có những rào cản cẩn thận, AI tạo sinh có thể bị vũ khí hóa để củng cố những niềm tin sai lầm, khiến việc các nền tảng và nhà phát triển phải thực thi những hướng dẫn nghiêm ngặt về cách sử dụng AI trong diễn ngôn công cộng trở nên cực kỳ quan trọng.
Tuy nhiên, những ý nghĩa tích cực của việc sử dụng AI như một công cụ cho sự thật là rất sâu sắc. Trong một thế giới mà thông tin sai lệch đang hoành hành, AI có thể trở thành một nguồn tài nguyên vô giá cho các nhà báo, giáo viên và những người kiểm chứng thông tin. Thay vì chơi trò “đập chuột” với mỗi thuyết âm mưu mới, chúng ta có thể thấy những giải pháp có thể mở rộng quy mô, nơi AI có thể tham gia một cách có hệ thống vào việc đối phó với thông tin sai lệch trên mạng xã hội, trong các công cụ tìm kiếm và hơn thế nữa.
Chủ nghĩa lạc quan trong thế giới hậu sự thật?
Thành công của AI trong việc thay đổi suy nghĩ nên truyền cảm hứng lạc quan. Trong một thời gian dài, người ta vẫn cho rằng một khi ai đó rơi vào vòng xoáy của tư duy âm mưu, họ sẽ mất khả năng lý trí. Nhưng nghiên cứu này cho thấy rằng ngay cả những người tin vào thuyết âm mưu một cách sâu sắc cũng có thể bị thuyết phục bằng cách tiếp cận đúng đắn – một cách tiếp cận kiên nhẫn, được cá nhân hóa và có bằng chứng hỗ trợ. AI có thể không đơn độc giải quyết được cuộc khủng hoảng thông tin sai lệch, nhưng chắc chắn nó bổ sung một công cụ mạnh mẽ mới vào cuộc chiến này.
Jeff Bezos cho biết trong một chuyến tham quan Blue Origin rằng ông muốn công ty làm cho du hành vũ trụ rẻ đến mức “hai đứa trẻ trong phòng ký túc xá” có thể tạo ra công ty vũ trụ lớn tiếp theo.
YouTuber Tim Dodd, được biết đến với tên kênh “Everyday Astronaut,” đã đăng một video phần hai của chuyến tham quan cơ sở sản xuất Blue Origin và bệ phóng Glenn ở Cape Canaveral, Florida, vào thứ Năm. Dodd đã phỏng vấn Bezos trong khi ông dẫn tour cơ sở khổng lồ mà Blue Origin sẽ sử dụng để phóng tên lửa vào không gian.
(Bezos thậm chí còn chỉ ra khu vực phóng mà đối thủ SpaceX sử dụng để phóng Falcon Heavy, tên lửa hoạt động mạnh nhất thế giới.)
Bezos nói trong cuộc phỏng vấn rằng ông muốn Blue Origin làm cho du hành vũ trụ rẻ đến mức chúng ta có thể bay tới mặt trăng “rẻ hơn 100 lần.”
“Du hành vũ trụ là một vấn đề đã được giải quyết. Nó đã được giải quyết trong năm mươi năm. Điều chưa được giải quyết là chi phí,” Bezos nói trong video.
Giải quyết vấn đề du hành vũ trụ rẻ và dễ dàng là “điều sẽ thực sự mở rộng bầu trời cho nhân loại” và làm cho “sự năng động khởi nghiệp trong không gian mà tôi đã chứng kiến cận cảnh trong 20 năm qua trên internet,” Bezos nói.
“Nếu kích thước tối thiểu để thực hiện bất kỳ thí nghiệm hữu ích nào là nhiều, nhiều triệu đô la, thì bạn không thể có, bạn biết đấy, hai đứa trẻ trong phòng ký túc xá tạo ra phát minh tuyệt vời tiếp theo,” ông nói thêm. “Rào cản gia nhập quá cao.”
Đã hơn ba năm kể từ khi Bezos từ chức CEO của Amazon, công ty mà ông nổi tiếng sáng lập trong gara của mình vào năm 1994. Khi từ chức, Bezos nói rằng ông dự định dành nhiều thời gian hơn cho hai dự án khác của mình, Blue Origin và The Washington Post.
Bezos nói trong chuyến tham quan Blue Origin rằng “lý do chính” ông rời vị trí CEO của Amazon là để tập trung vào Blue Origin.
“Tôi vẫn rất tham gia vào Amazon, chủ yếu là về mảng AI, nhưng Blue thực sự là nơi tôi đang đặt phần lớn nỗ lực sản xuất của mình, và tôi đang làm việc chăm chỉ hơn bao giờ hết thực sự,” Bezos nói trong video.